Giao kết hợp đồng thuê nhà bằng lời nói - có giá trị pháp lý hay không?
Trong thực tế, việc sử dụng lời nói để giao kết hợ...
0939.13.13.16 luattovang@gmail.com
Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân người để lại tài sản đối với phần tài sản thuộc sở hữu của mình. Như vậy, pháp luật cho phép cá nhân người lập di chúc có quyền tự do, tự nguyện, tự định đoạt trong việc lập di chúc để lại tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bất kỳ ai, không phụ thuộc vào mối quan hệ huyết thống, cấp dưỡng, quan hệ vợ chồng… sau khi người lập di chúc chết.
Tuy nhiên, để bảo đảm quyền lợi của một số người có quan hệ với người lập di chúc, pháp luật thừa kế cũng có những quy định hạn chế đối với quyền tự định đoạt của người lập di chúc. Theo quy định pháp luật hiện hành, những người có quyền hưởng thừa kế mà không phụ thuộc vào di chúc được quy định cụ thể tại Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
"1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này."
Như vậy, người không có tên trong di chúc không mặc nhiên là người không có quyền hưởng di sản. Người không có tên trong di chúc bao gồm:
- Con chưa thành niên; Con đã thành niên không có khả năng lao động; Cha; Mẹ; Vợ; Chồng của người để lại di sản, nếu không thuộc trường hợp là người từ chối nhận di sản hoặc không có quyền hưởng di sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì vẫn có quyền được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật.
Có thể thấy, Pháp luật Việt Nam xác định những người không tên trong di chúc theo quy định như trên được ưu tiên hưởng phần di sản mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc nhằm giảm thiểu nguy cơ lạm dụng quyền lợi của người viết di chúc, để ưu tiên một số người thừa kế có quan hệ thân thích với người lập di chúc. Việc không phụ thuộc hoàn toàn vào nội dung của di chúc giúp bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế, đặc biệt là trong trường hợp bản di chúc để lại có thể không được lập một cách công bằng và minh bạch. Bên cạnh đó, quy định này cũng phù hợp với những quy chuẩn đạo đức và phong tục tập quán của người Việt Nam, ưu tiên cho những người thừa kế yếu thế là một cách để bảo vệ giá trị gia đình, phản ánh tinh thần nhân văn trong quy định của pháp luật.
Những trường hợp không được quyền hưởng di sản
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015, người thừa kế không được quyền hưởng di sản trong các trường hợp sau đây:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Liên hệ Luật Tô Vàng để được tư vấn chi tiết.
Hãy liên hệ với Luật Tô Vàng ngay bây giờ để liên hệ với luật sư của chúng tôi nếu các thông tin trên chưa giải đáp được vấn đề của quý khách đang gặp phải. Chúng tôi sẽ lắng nghe những vấn đề pháp lý mà quý khách hàng đang đối mặt, cung cấp những lời khuyên đáng tin cậy và chính xác. Luật Tô Vàng - Luật sư Cần Thơ - Dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp.